Theo ABC News, Tổng thống Donald Trump liên tục gây áp lực lên Cục Dự trữ Liên bang (Fed) để hạ lãi suất. Tuy nhiên, ngay cả khi Fed nhượng bộ, điều này chưa chắc đã giúp người tiêu dùng vay tiền với chi phí thấp hơn.
Các nhà kinh tế cho rằng những chỉ trích liên tục của Trump đối với Chủ tịch Fed Jerome Powell và chính sách thuế quan của ông có thể khiến lãi suất dài hạn (vốn quan trọng đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp) cao hơn. Một Fed kém độc lập hơn có thể dẫn đến chi phí đi vay cao hơn theo thời gian, do nhà đầu tư lo ngại lạm phát có thể tăng đột biến trong tương lai.
Trump đã nhiều lần kêu gọi Powell cắt giảm lãi suất ngắn hạn mà ngân hàng trung ương kiểm soát. Fed thường giảm lãi suất trong thời kỳ suy thoái kinh tế để khuyến khích vay và chi tiêu nhiều hơn, đồng thời tăng lãi suất để hạ nhiệt nền kinh tế và chống lạm phát khi giá cả tăng.
Tuy nhiên, lãi suất dài hạn đối với các khoản như thế chấp, vay mua ô tô và thẻ tín dụng phần lớn do thị trường quyết định. Những tuần gần đây, lo ngại rằng thuế quan trên diện rộng của Trump có thể làm tăng lạm phát, cùng với những đe dọa của chính quyền đối với sự độc lập của Fed, đã khiến thị trường đẩy lãi suất dài hạn lên cao hơn. Không rõ liệu Fed có thể tự mình đảo ngược hoàn toàn những xu hướng đó hay không.
Francesco Bianchi, nhà kinh tế tại Đại học Johns Hopkins, cho biết: “Ngay cả khi Fed cắt giảm lãi suất, lãi suất dài hạn cũng không tự động giảm theo. Áp lực kiểu này lên Fed có thể phản tác dụng nếu thị trường không tin Fed kiểm soát được lạm phát”.
Trump tiếp tục kêu gọi Powell giảm lãi suất ngắn hạn của Fed, nói với các phóng viên rằng chủ tịch “đang mắc sai lầm” khi không làm như vậy. Tuần trước, Trump còn gợi ý có thể sa thải Powell.
Thị trường chứng khoán đã lao dốc, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm tăng và đồng đô la giảm. Thị trường phục hồi sau khi Trump tuyên bố “không có ý định” sa thải chủ tịch Fed.
Tuy nhiên, những đe dọa đối với sự độc lập của Fed đã khiến các nhà đầu tư Phố Wall lo lắng, vì họ coi một Fed không chịu áp lực chính trị là yếu tố quan trọng để kiểm soát lạm phát. Một Fed độc lập có thể thực hiện các bước đi không được lòng dân, chẳng hạn như tăng lãi suất, để chống lạm phát.
Lauren Goodwin, chiến lược gia thị trường tại New York Life Investments, cho biết: “Đe dọa Fed không xoa dịu thị trường mà khiến họ hoảng sợ. Kết quả thường trái ngược với những gì bất kỳ chính quyền nào muốn thấy: lãi suất cao hơn, niềm tin yếu hơn và thị trường hỗn loạn hơn”.
Kể từ khi Trump bắt đầu áp thuế vào đầu tháng 3, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm đã tăng từ 4,15% lên khoảng 4,3%. Lợi suất này là chuẩn cho lãi suất thế chấp và các khoản vay khác. Lãi suất thế chấp cũng tăng trong thời gian đó, từ 6,6% lên 6,8%.
Mặc dù Trump nói đang đàm phán về thuế quan với nhiều quốc gia, hầu hết các nhà kinh tế dự đoán một số mức thuế sẽ vẫn được áp dụng ít nhất trong năm nay, bao gồm cả mức thuế 10% đối với gần như tất cả hàng nhập khẩu của ông.
Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm đã giảm khi hai quan chức Cục Dự trữ Liên bang cho biết việc cắt giảm lãi suất có thể diễn ra ngay trong mùa hè này nếu nền kinh tế suy yếu và tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Tuy nhiên, mùa thu năm ngoái, lãi suất dài hạn cũng giảm trước dự đoán cắt giảm lãi suất, nhưng sau đó lại tăng khi Fed cắt giảm vào tháng 9 và tiếp tục tăng khi ngân hàng trung ương giảm lãi suất một lần nữa vào tháng 11 (hai ngày sau cuộc bầu cử) và vào tháng 12. Lãi suất thế chấp hiện cao hơn so với thời điểm Fed cắt giảm.
Một loạt yếu tố có thể ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu kho bạc dài hạn, bao gồm kỳ vọng về tăng trưởng và lạm phát trong tương lai, cũng như cung và cầu đối với trái phiếu chính phủ. Bianchi lo ngại rằng thâm hụt ngân sách chính phủ cao dai dẳng (vốn được tài trợ bằng hàng nghìn tỷ đô la trái phiếu kho bạc) cũng có thể đẩy lãi suất dài hạn lên cao.
Goodwin cho biết: “Nếu Fed cắt giảm lãi suất ngay bây giờ, chi phí đi vay dài hạn sẽ đi ngược lại, vì mối đe dọa lạm phát là quá rõ ràng – động thái đó sẽ khiến uy tín của họ bị nghi ngờ”.
Trump cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội tuần này rằng “hầu như không có lạm phát” và do đó, Fed nên hạ lãi suất chủ chốt từ mức hiện tại khoảng 4,3%. Nhiều nhà kinh tế kỳ vọng ngân hàng trung ương sẽ làm như vậy trong năm nay. Nhưng Powell đã nhấn mạnh rằng ngân hàng trung ương muốn đánh giá tác động từ các chính sách của Trump trước khi đưa ra bất kỳ động thái nào.
Lạm phát đã giảm trong những tháng gần đây, xuống 2,4% vào tháng 3, mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm ngoái. Tuy nhiên, nếu loại trừ các loại thực phẩm và năng lượng dễ biến động, lạm phát cơ bản là 2,8%. Giá cả cốt lõi thường cung cấp tín hiệu tốt hơn về hướng đi của lạm phát.
Một vấn đề quan trọng đối với Fed là nền kinh tế hiện nay rất khác so với thời kỳ nhiệm kỳ đầu tiên của Trump. Khi đó, lạm phát thực tế thấp hơn mục tiêu của Fed. Bianchi cho biết vào thời điểm đó, việc cắt giảm lãi suất là “điều hiển nhiên” nếu có nguy cơ suy thoái, vì lạm phát không phải là vấn đề.
Nhưng hiện tại, thuế quan gần như chắc chắn sẽ đẩy giá cả lên cao hơn trong những tháng tới, ít nhất là tạm thời. Điều đó làm tăng thêm áp lực cho việc cắt giảm lãi suất của Fed, Bianchi nói.
Tuy nhiên, một khi có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy nền kinh tế đang xấu đi, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, Fed sẽ cắt giảm lãi suất, bất kể Trump làm gì, các nhà kinh tế cho biết.
Trump hôm thứ Hai cáo buộc Powell thường “quá chậm trễ” với các quyết định về lãi suất của mình, nhưng trớ trêu thay, Fed có thể hành động chậm hơn lần này vì mối đe dọa giá cả cao hơn từ thuế quan. Nếu không có bằng chứng rõ ràng về sự suy thoái, các quan chức Fed sẽ lo ngại bị coi là nhượng bộ áp lực chính trị từ Trump nếu họ cắt giảm.
Tom Porcelli, nhà kinh tế trưởng về Hoa Kỳ tại PGIM Fixed Income, cho biết: “Powell biết thiệt hại không thể khắc phục nào sẽ xảy ra nếu người ta cho rằng ông ấy cắt giảm vì bị Trump ép buộc”.
Porcelli nói: “Fed hiện sẽ còn chậm trễ hơn vì tôi nghĩ rằng ban đầu bạn sẽ thấy lạm phát tăng lên nhiều hơn, trước khi bạn thấy tăng trưởng chậm lại rõ rệt hơn”.
Bianchi cho biết, dù bằng cách nào, có thể cần nhiều hơn một hoặc hai lần cắt giảm lãi suất của Fed để giảm chi phí đi vay dài hạn.
Ông nói thêm: “Để thực sự hạ lãi suất dài hạn, bạn cần cung cấp một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và hiện tại chúng ta chưa đạt được điều đó”.