Sống dưới oanh tạc và phong tỏa ở Gaza, thai phụ lo sợ cho đứa con chưa chào đời

Gần 7 tháng mang thai, chị Yasmine Siam sống trong một trại tị nạn đông đúc ở Gaza và thường xuyên bị rung chuyển bởi các cuộc oanh tạc của Israel. Chị không thể tìm đủ thức ăn và đã hơn một tháng không được ăn thịt. Cơ thể yếu ớt, sụt cân, chị phải đi khám bác sĩ mỗi ngày nhưng chẳng ích gì.

Một đêm nọ, những cơn đau nhói đến khiến chị lo sợ mình sắp sinh non, nhưng lại quá kinh hãi tiếng súng nên không dám rời lều. Đến sáng, Siam mới dám đi bộ đến phòng khám di động gần nhất. Các nhân viên y tế bảo chị đến Bệnh viện Nasser cách đó vài dặm.

Chị phải đi xe lừa, xóc nảy trên những con đường tan hoang vì bom đạn. Kiệt sức, người phụ nữ 24 tuổi tìm một bức tường để dựa vào trong lúc chờ đợi bác sĩ.

Kết quả siêu âm cho thấy em bé vẫn ổn. Siam bị nhiễm trùng đường tiết niệu và thiếu cân: 57 kg, giảm 6 kg so với vài tuần trước. Bác sĩ kê thuốc và dặn chị, như bao bác sĩ khác: Ăn uống tốt hơn.

“Tôi lấy thức ăn ở đâu ra?”, Siam nói, giọng đứt quãng khi trả lời phỏng vấn của hãng tin AP hôm 9/4 sau khi trở về lều của mình bên ngoài thành phố Khan Younis.

“Tôi không lo cho bản thân mình. Tôi lo cho con trai tôi”, chị nói. “Sẽ thật khủng khiếp nếu tôi mất con”.

Tình trạng thai nghén khó khăn của Siam đã trở thành điều bình thường ở Gaza. Chiến dịch quân sự kéo dài 18 tháng của Israel đã tàn phá vùng lãnh thổ này, khiến việc mang thai và sinh nở trở nên nguy hiểm, thậm chí gây tử vong cho phụ nữ Palestine và con của họ.

Tình hình trở nên tồi tệ hơn kể từ ngày 2/3, khi Israel cắt đứt mọi nguồn cung cấp lương thực, thuốc men và nhu yếu phẩm cho hơn 2 triệu dân ở Gaza.

Thịt, trái cây tươi và rau gần như không còn. Nước sạch rất khó kiếm. Phụ nữ mang thai nằm trong số hàng trăm nghìn người phải lặn lội hàng dặm để tìm nơi trú ẩn mới sau những mệnh lệnh sơ tán liên tục của Israel. Nhiều người sống trong lều hoặc các trường học quá tải, giữa cảnh nước thải và rác rưởi.

Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), có tới 20% trong số 55.000 phụ nữ mang thai ở Gaza bị suy dinh dưỡng, và một nửa đối mặt với nguy cơ cao trong thai kỳ. Trong tháng 2 và tháng 3, ít nhất 20% trẻ sơ sinh bị sinh non hoặc mắc các biến chứng do suy dinh dưỡng.

Do dân số phải di dời và sống dưới làn bom đạn, nên không thể có được số liệu đầy đủ về sẩy thai và thai chết lưu. Hồ sơ tại Bệnh viện Nasser ở Khan Younis cho thấy số ca sẩy thai trong tháng 1 và tháng 2 đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2023.

Bác sĩ Yasmine Shnina, giám sát viên hộ sinh của tổ chức “Bác sĩ không biên giới” tại Bệnh viện Nasser, ghi nhận 40 ca sẩy thai mỗi tuần trong những tuần gần đây. Bà cũng ghi nhận số phụ nữ tử vong khi sinh nở là 5 người/tháng, so với khoảng 2 người/năm trước chiến tranh.

“Chúng ta không cần phải chờ đợi tác động trong tương lai. Những rủi ro đang nổi lên ngay bây giờ”, bà nói.

Đối với Siam và gia đình, việc mang thai – sau một cuộc hôn nhân chóng vánh trong thời chiến – là một niềm vui hiếm hoi.

Bị đuổi khỏi Thành phố Gaza, họ đã chuyển chỗ ở ba lần trước khi định cư trong thành phố lều trải dài trên vùng ven biển cằn cỗi Muwasi.

Cuối mùa hè năm ngoái, họ cùng ăn tối với hàng xóm. Một thanh niên từ chiếc lều đối diện đã trúng tiếng sét ái tình.

Ngày hôm sau, Hossam Siam ngỏ lời cầu hôn Yasmine.

Ban đầu, chị từ chối. “Tôi không nghĩ đến chuyện kết hôn trong chiến tranh”, chị nói. “Tôi chưa sẵn sàng để gặp gỡ ai đó”.

Hossam không bỏ cuộc. Anh đưa chị đi dạo bên bờ biển. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đời mình. “Tôi đã chấp nhận”, chị nói.

Vào ngày 15/9, gia đình chú rể trang trí lều của họ. Những người bạn thân nhất của chị từ Thành phố Gaza, nay đã ly tán khắp vùng lãnh thổ, theo dõi đám cưới trực tuyến.

Một tháng sau, Yasmine Siam mang thai.

Gia đình chị trân trọng đứa bé sắp chào đời. Mẹ chị đã có các cháu trai từ hai con trai, nhưng lại mong mỏi có một đứa cháu từ các con gái. Chị gái của Siam đã cố gắng thụ thai trong 15 năm. Mẹ và chị gái chị – hiện đã trở lại Thành phố Gaza – gửi đồ dùng thiết yếu cho em bé.

Ngay từ đầu, Siam đã phải vật lộn để có được dinh dưỡng phù hợp, phải dựa vào đồ hộp.

Sau khi lệnh ngừng bắn bắt đầu vào tháng 1, chị và Hossam chuyển đến Rafah. Vào ngày 28/2, chị có một món ăn hiếm hoi: một con gà, chia sẻ với gia đình chồng. Đó là lần cuối cùng chị được ăn thịt.

Một tuần sau, Hossam đi bộ hàng dặm để tìm mua gà. Anh trở về tay không.

Israel đã san bằng phần lớn Gaza bằng chiến dịch trên không và trên bộ, thề sẽ tiêu diệt Hamas sau cuộc tấn công ngày 7/10/2023 vào miền nam Israel. Theo Bộ Y tế Gaza, chiến dịch này đã giết hơn 51.000 người Palestine, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.

Trong cuộc tấn công ngày 7/10, các chiến binh đã giết khoảng 1.200 người, chủ yếu là dân thường, và bắt cóc 251 người. Họ vẫn còn giữ 59 con tin sau khi hầu hết đã được thả trong các thỏa thuận ngừng bắn.

Trong đống đổ nát ở Gaza, việc mang thai là một cuộc đấu tranh ghê gớm.

Rosalie Bollen của UNICEF cho biết: “Không chỉ là số lượng thức ăn, mà còn là sự đa dạng dinh dưỡng, thực tế là họ đã sống trong điều kiện rất tồi tệ, mất vệ sinh, ngủ trên mặt đất, ngủ trong giá lạnh và bị mắc kẹt trong trạng thái căng thẳng độc hại thường xuyên”.

Theo UNFPA, 9 trong số 14 bệnh viện cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước chiến tranh vẫn hoạt động, mặc dù chỉ một phần.

Katy Brown của tổ chức “Bác sĩ không biên giới” cho biết, do nhiều cơ sở y tế bị gián đoạn bởi các hoạt động quân sự của Israel hoặc phải ưu tiên cho các bệnh nhân nguy kịch, nên phụ nữ thường không thể được sàng lọc để phát hiện sớm các vấn đề trong thai kỳ.

Điều đó dẫn đến các biến chứng. UNFPA cho biết, một phần tư trong số gần 130 ca sinh mỗi ngày trong tháng 2 và tháng 3 cần phải phẫu thuật.

“Ngay cả những điều cơ bản cũng là không thể”, Brown nói.

Bộ Y tế cho biết, dưới sự phong tỏa, hơn một nửa số thuốc men dành cho việc chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh đã hết, bao gồm cả những loại thuốc kiểm soát chảy máu và gây chuyển dạ. Tã lót rất khan hiếm. Các nhân viên cứu trợ cho biết, một số phụ nữ tái sử dụng tã lót, lộn trái chúng, dẫn đến nhiễm trùng da nghiêm trọng.

Israel nói rằng lệnh phong tỏa nhằm gây áp lực buộc Hamas phải thả những con tin còn lại. Các nhóm nhân quyền gọi đây là một “chiến thuật bỏ đói” gây nguy hiểm cho toàn bộ dân số và là một tội ác chiến tranh tiềm tàng.

Tại khoa sản của Bệnh viện Nasser, bác sĩ Ahmad al-Farra đã chứng kiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn.

Lực lượng Israel đã đột kích vào bệnh viện vào đầu năm 2024, cáo buộc nơi này chứa chấp các chiến binh Hamas. Các lồng ấp trong một nhà kho đã bị phá hủy. Khoa sản đã được xây dựng lại thành khoa lớn nhất và được trang bị tốt nhất cho các trường hợp khẩn cấp ở Gaza.

Kể từ khi Israel phá vỡ lệnh ngừng bắn kéo dài hai tháng vào ngày 18/3, bệnh viện đã tràn ngập những người bị thương.

Al-Farra cho biết, có tới 15 trẻ sinh non cùng lúc cần máy thở, nhưng bệnh viện chỉ có hai máy CPAP để giúp trẻ thở. Một số trẻ được đặt vào máy thở dành cho người lớn, thường dẫn đến tử vong.

Theo Liên Hợp Quốc, 20 máy CPAP đang nằm bên ngoài Gaza, không thể vào được do lệnh phong tỏa, cùng với 54 máy siêu âm, 9 lồng ấp và bộ dụng cụ hộ sinh.

Al-Farra cho biết, việc thiếu đồ dùng vệ sinh khiến cho việc giữ gìn vệ sinh gần như là không thể. Sau khi sinh con, phụ nữ và trẻ sơ sinh bị suy yếu do đói thường bị nhiễm trùng gây ra các biến chứng lâu dài, hoặc thậm chí tử vong.

Yasmine Zakout đã được đưa đến Bệnh viện Nasser vào đầu tháng 4 sau khi sinh non hai bé gái sinh đôi. Một bé gái đã chết trong vòng vài ngày, và em gái của bé đã chết vào tuần trước, cả hai đều vì nhiễm trùng huyết.

Al-Farra cho biết, trước chiến tranh, ông có lẽ chỉ gặp một trẻ bị viêm phổi hoại tử mỗi năm, một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng giết chết mô phổi.

“Trong cuộc chiến này, tôi đã điều trị 50 ca”, al-Farra nói. Ông đã cắt bỏ một phần phổi của gần một nửa số trẻ đó. Ít nhất bốn trẻ đã chết.

Phụ nữ mang thai thường xuyên nằm trong số những người bị thương.

Khaled Alserr, một bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Nasser, kể về việc điều trị cho một phụ nữ mang thai bốn tháng sau một cuộc tấn công vào ngày 16/4. Mảnh đạn đã xé toạc tử cung của cô. Ông cho biết, thai nhi không thể cứu được, và việc mang thai sẽ rất rủi ro trong suốt quãng đời còn lại của cô. Ông cho biết, hai trong số những đứa con của cô nằm trong số 10 trẻ em thiệt mạng trong cuộc tấn công.

Ở tháng thứ sáu của thai kỳ, Siam đã đi bộ và đi xe lừa hàng dặm trở lại một chiếc lều ở Muwasi sau khi Israel ra lệnh sơ tán Rafah.

Khi thức ăn ngày càng khan hiếm, chị chuyển sang các bếp ăn từ thiện phân phát các bữa ăn gồm cơm hoặc mì ống trắng.

Cơ thể suy yếu, chị ngã rất nhiều. Căng thẳng ngày càng gia tăng – sự khốn khổ của cuộc sống trong lều, sự chia ly với mẹ, nỗi kinh hoàng của các cuộc không kích, những lần đến phòng khám vô ích.

“Tôi chỉ ước một bác sĩ sẽ nói với tôi, ‘Cân nặng của bạn tốt’. Tôi luôn bị suy dinh dưỡng”, chị nói với AP, gần như van nài.

Vài giờ sau nỗi kinh hoàng vào ngày 9/4, Siam vẫn còn đau. Chị đã đến phòng khám di động lần thứ năm trong hai ngày. Họ bảo chị về lều nghỉ ngơi.

Chị bắt đầu ra máu. Mẹ chồng dìu chị đi đến một bệnh viện dã chiến trong đêm khuya.

Lúc 3 giờ sáng, các bác sĩ nói rằng không có gì chị có thể làm ngoài việc chờ đợi. Mẹ chị đến từ Thành phố Gaza.

Tám giờ sau, thai nhi chết lưu. Mẹ chị bảo chị đừng nhìn đứa bé. Mẹ chồng chị nói rằng nó rất đẹp.

Chồng chị mang con trai họ đến một ngôi mộ.

Vài ngày sau, chị nói với AP rằng chị suy sụp khi nhìn thấy những bức ảnh mình mang thai. Chị không thể chịu đựng được khi nhìn thấy bất kỳ ai và từ chối những lời đề nghị đi dạo bên bờ biển của chồng, nơi họ đã thề ước hôn nhân.

Chị ước mình có thể quay ngược thời gian, dù chỉ một tuần.

“Tôi sẽ ôm con vào lòng, giấu con đi và giữ chặt con”.

Chị dự định sẽ cố gắng sinh một đứa con khác.

___

El Deeb đưa tin từ Beirut. Keath đưa tin từ Cairo.

“`


TIN LIÊN QUAN


XEM NHIỀU

Đức Giáo hoàng Francis


Tin Chính trị


Tin Hoa Kỳ


Tin Di trú